Lịch sử văn hóa

ĐÌNH TÂN HOA - PHƯỜNG TÂN HÒA TPVL

Đình Tân Hoa thuộc huyện Vĩnh Bình, Phủ Định Viễn, nay ở tại ấp Tân Hưng, xã Tân Hòa, thành phố Vĩnh Long. Đình Tân Hoa nằm bên bờ sông Tiền, ngó mặt ra vàm rạch Cái Đôi nên dân thường gọi là đình Cái Đôi. Ngày nay, ngôi đình này đối diện với cầu Mỹ Thuận, là một vị trí thích hợp cho khách du lịch nhìn ngắm danh lam thắng cảnh.

Theo các bô lão ở địa phương kể lại thì khoảng giữa thế kỷ XVIII có ông Nguyễn Tự Tôn - một quan chức – đã đứng ra chiêu mộ dân nghèo thành lập một thôn nằm cạnh sông Tiền. Do thôn này sinh sau đẻ muộn so với các thôn khác như Vĩnh Tòng, Trường Xuân… nên đầu thế kỷ XIX, khi Trịnh Hoài Đức viết Gia Định thành thông chí đã chú thích hai chữ “thỉ lập” (mới lập) bên cạnh tên làng này. Đình Tân Hoa được xây cất sau khi việc khai phá cơ bản hoàn thành. Ngày nay, chúng ta chưa có tài liệu chứng minh niên đại xây dựng đầu tiên của ngôi đìnhl, nhưng hiện nay, đình Tân Hoa còn lưu nhiều hiện vật như bài văn tế thần Thành Hoàng Đại Vương - dấu ấn tín ngưỡng có từ thế kỷ XVIII… Đặc biệt nhất, đình còn một biển hiệu cổ khắc ba chữ Tân Hoa Đình theo lối triện làm trong năm Mậu Ngọ (1798), kích thước to lớn, chứng tỏ lúc đó, quy mô đình Tân Hoa không nhỏ.

Sau khi ông Nguyễn Tự Tôn mất, con ông là Nguyễn Văn Niệm cùng dân làng tiếp tục khai khẩn đất hoang và đến đời cháu là Nguyễn Bửu, đất đai đã phì nhiêu, làng xóm giàu có no đủ. Ông Nguyễn Văn Bửu đã vận động dân làng trùng tu tôn tạo đình Tân Hoa. Do những công lao đặc biệt ấy, triều đình đã tặng ông Nguyễn Văn Bửu hàm Bá hộ, khi mất được dân làng tôn Hậu hiền. Còn ông của ông là Nguyễn Tự Tôn cũng được tôn Tiền hiền. Cả hai được tòng tự bên cạnh thần Thành Hoàng Bổn Cảnh.

Vào khoảng đời Thiệu Trị (1841 - 1847), tên làng Tân Hoa do trùng tên húy bà Hoàng Thái hậu Hồ Thị Hoa (vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị) nên bị đổi thành Tân Hóa. Đến ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức thứ năm (08/01/1853), làng Tân Hóa cũng như bao làng khác ở trong vùng đều đồng loạt được sắc phong Bổn cảnh Thành Hoàng chi thần. Thế nhưng, văn bản quý giá này không tồn tại lâu dài. Năm 1862 quân viễn chinh Pháp đã nã súng thôn tính các tỉnh miền Đông Nam bộ và tỉnh Vĩnh Long thì sắc thần Tân Hoa đã bị thiêu hủy. Do đó, khi thực hiện Hiệp ước năm 1862, tỉnh Vĩnh Long được trả lại cho triều đình Huế thì chính quyền đương thời đã nhanh chóng báo cáo và Bộ Lễ đã cấp tốc tái cấp cho làng Tân Hoa một bản sao sắc thần này. Bản sao thần sắc là một tờ giấy trắng, loại giấy lệnh, viết nguyên văn đạo sắc thần, dưới có dòng chữ “Lễ Bộ cung lục, Tân Hoa xã tuân chiếu phụng tự”. Bên dưới chỉ đóng dấu “Lễ Bộ chi ấn”, chớ không giống các đạo sắc thần thường thấy. Đây là một việc làm nhằm mục đích tạo điều kiện bảo tồn văn hóa, mang tính chất đặc biệt.

Vào giai đoạn đầu của thời Pháp thuộc, làng Tân Hóa nhập với làng Tân Hội, Tân Nhơn, lấy tên mới là Tân Hòa. Do đó vào năm Canh Tuất (1910), đình Tân Hóa được trùng tu và lấy tên là “Tân Hoà linh miếu”. Hiện nay, quy mô đình Tân Hòa là quy mô của đợt tái thiết này. Tất cả gồm có sáu nóc làm theo kiểu xếp đọi, mang dáng dấp chung đình làng Nam bộ nhưng cũng có những nét riêng. Chánh điện là một ngôi nhà tứ trụ, được nới rộng ra bốn phía bằng kèo đấm và tám kèo quyết. Còn các ngôi nhà khác như võ ca, võ quy, hậu điện… đều làm theo kiểu ba gian hai chái. Nền đình xây bằng đá chẻ, lần trùng tu sau này đã xây tường gạch bao quanh và cũng không giấu được dấu ấn mỹ thuật của thời gian này là các hoa văn Pháp trên đầu cột ngoài hàng hiên phía trước. Mái đình được lợp bằng ngói âm dương, nối liền nhau bằng hệ thống máng xối. Các bờ nóc, bờ mái được xây cao và gắn nhiều hình trang trí bằng sành như liễn long tranh châu, cá hóa long, phượng hàm thư, rồng khoanh, bát tiên, ông Mặt trời và bà Mặt trăng. Đây là những hình gốm sản xuất tại Chợ Lớn vào những năm đầu thế kỷ này và đã làm cho nóc đình Tân Hoa khác với những nóc đình khác. Đáng chú ý nhất là bộ giàn trò bằng gỗ quý, cột đình to, một người ôm không xuể. Lòng căn đình rất rộng, từ ba đến bốn thước. Các bộ phận chịu lực như xuyên, trính, kèo… đều làm theo kiểu lục lăng, võ đậu, đùi ếch… nên cứng cáp. Đặc biệt, các bộ phận vừa kể ở tại võ qui, nơi tập trung đông người thường xuyên được chạm khắc theo những họa tiết mỹ thuật. Thí dụ như bốn cây kèo đùi ếch võ đậu thông thường thì được đục đẽo thành hình những con rồng. Thân kèo là thân rồng. Những lá dung đỡ cây đòn tay cuối tầng mái biến thành những đầu rồng. Có thể nói, đây là nét lạ về kỹ thuật, đẹp về thẩm mỹ mà khả năng chịu lực không hề suy giảm.

Trong đình Tân Hoa còn giữ được hàng chục bộ bao lam, hàng chục hoành phi, câu đối, rất nhiều tự khí như lỗ bộ, lư, đỉnh, hương án, khánh thờ… Đặc biệt, những tác phẩm chạm trổ đều do thợ Tân Nhơn (thợ ở địa phương) thực hiện.

Đình Tân Hoa còn có điểm rất lạ nữa là giữa sân đình không có đàn Thần Nông, mà chỉ có một tấm bình phong đắp hình “long mã phụ đồ” như một ngôi đình Thừa Thiên. Còn Thần Nông lại được thờ trong một ngôi miếu con ở góc bên. Tục lệ này cũng khác lạ với những ngôi đình khác ở Nam Bộ.

Mỗi năm, tại đình Tân Hoa có các ngày lễ :

- Lễ Thượng Điền vào ngày 11 và 12 tháng 9 âm lịch.

- Đặc biệt, đình Tân Hoa còn giữ lệ vía Thần Thành Hoàng, tức ngày Kỳ yên (cũ) khi mới thành lập đình, trước khi được nhà Nguyễn chuẩn mực hóa.

- Nhưng ngày lễ lớn nhất của ngôi đình này là ngày Hạ Điền – Kỳ yên, từ ngày 11 - 13 tháng ba âm lịch hàng năm.

Đình Tân Hoa là một công trình kiến trúc mang tính nghệ thuật, minh chứng cho một giai đoạn lịch sử khá dài. Trải bao thăng trầm từ khi cha ông chúng ta bắt đầu khai hoang lập ấp, thành lập xóm làng, thế nhưng, mặc dù trong hoàn cảnh nào, cha ông chúng ta vẫn cố gắng bảo tồn di sản văn hóa. Do đó, đình Tân Hoa được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử – văn hóa năm 1998.

Nguồn: Sách Di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Vĩnh Long

 

  MIẾU CÔNG THẦN

Nhiều sách báo trước đây đã nói đến miếu Công thần Vĩnh Long, nhưng tất cả đều bị bao phủ bởi các huyền thoại. Có người nói, ngôi miếu này xây dựng vào thời Gia Long, thờ 85 vị Trung Hưng Công thần. Rồi có tác giả chọn 85 vị Công thần triều Gia Long thờ ở miếu Hiển Trung(Gia Định) gán ghép vào.

Sự thật, miếu Công thần Vĩnh Long là hậu thân của miếu Hội Đồng tỉnh Vĩnh Long. Theo Đại Nam nhất thống chí, miếu Hội Đồng Vĩnh Long xây dựng năm Minh Mạng thứ 17 (1837) tại thôn Thanh Mỹ Đông, huyện Vĩnh Bình. Dân gian thường gọi ngôi miếu này là Đình Khao do tương truyền các quan cựu trào thường chọn nơi này để yến ẩm, khao thưởng. Miếu Hội Đồng là thiết chế cấp tỉnh thời nhà Nguyễn. Các vị thần được thờ tại miếu Hội Đồng được triều đình nhìn nhận bằng sắc phong. Hàng năm, các quan đầu tỉnh thay mặt triều đình đến tế, theo điển lễ.

Thời cực thịnh của miếu Hội Đồng Vĩnh Long chỉ kéo dài được 30 năm thì thực dân Pháp đã thôn tính và đô hộ. Trong kế hoạch bình định, chúng lấy cớ thiếu gỗ xây dựng dinh Tham Biện nên đã phá hủy ngôi miếu này. Tuy không may mắn như Văn Thánh Miếu, nhưng lúc đó, có người gom được tất cả đồ thờ tự, đặc biệt là 85 đạo sắc phong của miếu Hội Đồng đem về gởi tại đình làng Thiềng Đức.

Khoảng năm 1918, tức là sau Đại chiến Thứ nhất, nhờ sự vận động cùa bà Trương Thị Loan (bà Phủ Y) và bà Lê Thị Danh, chính quyền đô hộ thời bấy giờ đã cho phép khôi phục lại miếu Hội Đồng Vĩnh Long. Ông Nguyễn Văn Kỷ đã hiến một mẫu đất, bà Trương Thị Loan đã hiến 3.000 đồng, số tiền khổng lồ thời bấy giờ, để xây dựng ngôi miếu mới. Miếu mới cách vị trí cũ khoảng một cây số nhưng gần thành phố hơn.

Để chính quyền đô hộ chấp nhận, giới thân hào nhân sĩ thời bấy giờ đã thờ thêm danh sách những thanh niên ở Vĩnh Long bị bắt đi lính tham gia Đại chiến bỏ mạng bên trời Tây. Đồng thời, bà Trương Thị Loan cũng đã gởi của hương hoả thờ cha chồng bà là ông Nguyễn Văn Phong, người Vĩnh Long, nguyên là Tổng đốc Thuận Khánh thời Thành Thái. Do đó, ngôi miếu mới này được gọi là miếu Công thần. Từ đó có nhiều huyền thoại : miếu Công thần là ngôi miếu có từ thời Gia Long, thờ 85 vị công thần triều Gia Long… Chúng ta hiểu những huyền thoại này được tung ra để chính quyền đô hộ yên tâm chấp nhận vì thời bấy giờ, thực dân đề cao thuyết “Pháp – Việt nhất gia”. Do những huyền thoại này mà trong miếu Công thần Vĩnh Long có câu đối đầy khí phách hào hùng :

Phù Lê Nguyễn bát thập ngũ nguyên huân, tráng khí Tượng Châu thiên dĩ bắc
Bình Chiêm Lạp bách thiên dư chiến trận, danh phiêu Lân các hải nhi nam.

(Phò Lê Nguyễn, tám mươi lăm vị nguyên huân, khí mạnh Tượng Châu cũng như trời phía bắc

Bình Chiêm Lạp hơn ngàn trận, danh nêu ở gác Lân mặc dù chỉ ở vùng biển phía Nam).

Từ khi tái thiết, miếu Hội Đồng Vĩnh Long có tên chính thức là “Công thần Linh miếu”, trở thành nơi thờ phượng dân gian, không còn mang tính chính thống của nhà Nguyễn nữa.

Miếu Công thần Vĩnh Long còn giữ được 85 đạo sắc phong của nhà Nguyễn cấp thời Thiệu Trị và Tự Đức, trong đó có sắc của Thiệu Trị, có sắc của Tự Đức thay lời Thiệu Trị, cũng có sắc của Tự Đức. Thế nhưng, đây là phó bản thay thế bản chính đã mất vào năm 1843. Đặc biệt, có sắc viết đầu năm Thiệu Trị thứ bảy, nhưng ghi ngày tháng cuối năm, lúc ấy Thiệu Trị đã băng hà, Tự Đức đã lên ngôi nhưng vẫn còn sử dụng niên hiệu Thiệu Trị. Có sắc viết và ghi cuối năm Thiệu Trị thứ bảy. Lúc ấy, Thiệu Trị đã băng hà nên tuy vẫn dùng niên hiệu Thiệu Trị mà lời lẽ thì của Tự Đức, thay mặt vua cha mình.

85 đạo sắc ấy phong cho 34 thần hiệu. Có thần hiệu phong cho một vị thần nhưng cũng có thần hiệu phong cho hai hoặc ba vị thần :

- 4 đạo sắc gia phong cho 4 Nhiên thần Thượng Đẳng.

- 4 đạo sắc gia phong cho 4 Nhiên thần Trung Đẳng.

- 5 đạo sắc gia phong cho 5 Nhiên thần Hạ Đẳng.

- 5 đạo sắc gia phong cho 5 Nhân thần Thượng Đẳng

- 11 đạo sắc gia phong cho 11 Nhân thần Trung Đẳng.

- 5 đạo sắc gia phong cho 5 Nhân thần Hạ Đẳng.

Đây là hệ thống thần linh ở địa phương, gồm có những biểu tượng văn hóa, những biểu tượng khí thiêng sông núi. Nếu là nhân thần thì cũng là những danh nhân sinh tiền có công với dân tộc, có công với địa phương. Nếu danh nhân xa xưa nhất thì phải kể đến Phi Vận Tướng quân Nguyễn Phục, gốc là thầy dạy học và cũng là một công thần triều vua Lê Thánh Tông. Ông được xem là một vị thần phù hộ người đi biển đã đưa đám lưu dân vào Nam lập nghiệp. Ông được phong Trung Đẳng thần. Kế đến là Đô đốc Bùi Tá Hán (Nghệ An) -người khai phá vùng đất Thừa Thiên, đời Lê Anh Tông. Tham tướng Lê Văn Chính, người khai phá vùng Phú Yên, đời chúa Nguyễn Hoàng… đều được phong Thượng Đẳng thần. Những danh nhân có công lớn với Nam bộ như Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh, Chính thống Nguyễn Cửu Vân, Phụ quốc Đô đốc Trần Thắng Tài… cũng được phong Thượng Đẳng thần. Các danh nhân có công với vùng đất Vĩnh Long như Điều khiển Nguyễn Cư Trinh, Chưởng cơ Nguyễn Khoa Kiên, Hữu phủ Tống Phước Hiệp, Thống suất Trương Phước Du cũng được phong Trung Đẳng hay Hạ Đẳng thần. Còn các biểu tượng văn hóa (Nhiên thần) cũng được chia ba bậc : Thượng, Trung và Hạ. Các biểu tượng này đủ màu sắc : Việt, Hoa, Chăm. Nhìn chung, dù Nhân thần hay Nhiên thần cao thấp khác nhau là do công trạng lúc sinh tiền hay mức độ ảnh hưởng trong dân gian.

Miếu Công thần Vĩnh Long hiện nay ở tại phường 5 – thành phốVĩnh Long, bên bờ sông Cổ Chiên. Ngôi miếu gồm có bốn nóc : chính tấm, võ qui, võ ca và nhà khách. Tuy nhiên, võ qui, võ ca và chính tấm đều làm theo kiểu “tứ trụ”. Bộ giàn trò bằng danh mộc, kiên cố nhưng đơn giản. Ngôi miếu có tường gạch bao quanh, nền lót gạch, mái lợp ngói âm dương . Bên trong miếu Công thần có rất nhiều hoành phi, câu đối từ các địa phương tiến cúng, có các nhân vật ở miền Trung, miền Bắc. Riêng về cách bày trí thờ phượng không khác một ngôi đình làng.

Mỗi năm tại miếu Công Thần Vĩnh Long có các ngày lễ :

  1. Lễ Thượng Nguyên và lễ Bầu Ông (rằm và 16 tháng giêng).
  2. Lễ Hạ Điền (rằm và 16 tháng năm).
  3. Lễ Trung Nguyên (rằm và 16 tháng bảy)
  4. Lễ Thu tế và Trung Thu (rằm và 16 tháng tám)
  5. Lễ Thượng Điền và Hạ Nguyên (rằm và 16 tháng mườI)
  6. Lễ Chạp miếu (rằm và 16 tháng chạp) phải
  7. Lễ Tất niên và Dựng nêu (25 tháng chạp).

Nhìn chung, nguồn gốc nghi lễ tại miếu Công thần rất phức tạp. Lễ Hạ Điền và lễ Thượng Điền là nghi lễ của một đình làng. Ngày ấy, dân làng tế Thần Nông, vũ sư, phong bá và các vị thần linh khác để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bộI thu. Còn lễ Bầu Ông là nghi lễ thời khai hoang phá rừng còn lưu truyền. Theo lời người xưa kể lại, thời đó, con người không ai dám làm chức Trùm Cả, tức là chức vụ đứng đầu làng, chức vụ này phải dành cho cọp. Nếu ai bạo gan, trái điều kiêng kỵ thì cọp sẽ về móc họng giết chết. Do vậy hàng năm, Hương chức phải làm lễ tế “ông Trùm Cả” và dâng cho “Ông” một tờ cử hương chức. Tối hôm đó, ông sẽ về nhận lễ vật và trả tờ cử nhiệm kỳ qua. Tục lệ này có vẻ dị đoan,, nhưng mục đích nhằm trấn an dân làng bám trụ phá rừng. Đặc biệt, trong một năm chỉ có lễ Xuân tế là ngày lễ quan trọng nhất tại miếu Công thần. Ngày lễ này kéo dài 4 ngày : 14, rằm, 16, 17 tháng hai, có hàng ngàn bà con trong thành phố và các nơi khác về dự. Lễ Xuân tế là dịp bà con đến lễ bái các vị thần linh cầu quốc thái dân an, là dịp bà con lễ bái các vị tiền nhân với ý niệm uống nước nhớ nguồn. Đây cũng là dịp cầu an làng xóm nên ngoài các nghi lễ truyền thống còn có các nghi lễ dân gian mang màu sắc Phật giáo, Lão giáo. Lễ Xuân tế là dịp bà con họp mặt vui chơi đàm đạo, xem hát bội.

Có thể nói, miếu Công Thần Vĩnh Long là một “tượng đài” kỷ niệm 300 năm văn hóa vùng đất này. Do đó, ngày 31 tháng 8 năm 1998, Bộ Văn hóa Thông tin đã ra Quyết định số 1811-QĐ công nhận miếu Công thần là di tích văn hóa cấp quốc gia.

Nguồn: Sách Di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Vĩnh Long

 

  THẤT PHỦ MIẾU (CHÙA ÔNG) PHƯỜNG 5

Thất Phủ miếu là bảy phủ : Ninh Ba, Phước Châu, Chương Châu, Truyền Châu, Quảng Châu, Triều Châu và Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) của các tỉnh Trực Lệ, Phước Kiến và Quảng Đông. Vào đời Thanh, có rất nhiều người Hoa ở các các địa phương vừa kể sang nước ta lập nghiệp nên nhà Nguyễn cho phép họ lập Hội Thất Phủ, tượng tự như Hội Hoa kiều ngày nay.

Căn cứ vào tên gọi, chúng ta biết miếu Thất Phủ tại Vĩnh Long có từ thời Nguyễn. Thời đó, chợ Vĩnh Long phố xá tấp nập. Theo Đại Nam nhất thống chí, hai mặt chợ Vĩnh Long đều giáp sông, phố xá liên tiếp, trăm mốI hàng hóa tấp nập đủ cả, chạy dài năm dặm, ghe thuyền đậu đầy bến sông. Có đình miếu thờ thần rực rỡ, đờn ca náo nhiệt, là chỗ phố phường lớn. Như thế, vàm sông Long Hồ, trước mặt miếu Thất Phủ hoặc miếu Minh Hương là bến thuyền, nên họ chọn nơi này đặt Hội quán giao tiếp.

Đến thời Pháp thuộc, số người Hoa đến Vĩnh Long làm ăn ngày một đông. Do yêu cầu lúc đó, những người Quảng Đông, Triều Châu tách ra lập bang hội riêng nên những người Phúc Kiến còn lại vào năm 1872 đã tái thiết miếu Thất Phủ, đổi lại là “Vĩnh An cung”, để làm Hội quán của bang mình.

Thất Phủ hội quán (Vĩnh An cung) ở địa chỉ Khu A, phường 5, thành phố Vĩnh Long ngày nay. Đây là công trình kiến trúc của nhóm thợ tài hoa gồm mười người từ Phúc Kiến sang, đứng đầu là công trình sư Hà Tạo. Tất nhiên, suốt giai đoạn xây dựng (từ năm 1892 đến 1909), họ phải có sự giúp sức của nhiều thợ khác như thợ mộc xây dựng, thợ đá, thợ hồ, trang trí, thợ sơn thiếp, họa sĩ, thợ cắt sành và thợ mộc trang trí.

Miếu Thất Phủ làm theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Phía sau là chính điện, phía trước là tiền đường, hai bên là Đông sương và Tây sương (nhà Đông và nhà Tây, người Việt thường gọi là Đông lang và Tây lang). Diện tích xây dựng khoảng 800 mét vuông, xung quanh được bao kín bởi những vách gạch kiên cố. Để một khoảng diện tích to rộng như thế ấy có đầy đủ ánh sáng, các công trình sư đã cho chừa những khoảng sân trống. Tuy các khu vực chính nằm xa nhau nhưng có thể thông hành qua lại nhờ các nhà nối, gọi là “hà cầu” (hà kiều), tức xem những sân trống đó là ao sen và những nhà nối ấy là những cây cầu bắc qua ao sen.

Theo truyền thống xây dựng của Trung Quốc, mái Thất Phủ miếu lợp ngói âm dương, được phong tô kỹ lưỡng. Chân mái ngói được viền một loại ngói đặt biệt có tráng men màu xanh. Đứng trước sân nhìn vào, nét đặc biệt nhất của nghệ thuật kiến trúc vùng Phúc Kiến cũng như nghệ thuật kiến trúc của miếu Thất Phủ là mái ngói cong vút và tầng mái gian giữa cao hơn tầng mái của hai gian bên. Một điểm đặc biệt nữa là miếu Thất Phủ xây dựng theo kiểu cung đình, có năm cửa cái. Hai ô cửa tượng trưng mặt trời, mặt trăng; trong miếu có nhiều hình ảnh cố sử.

Bộ giàn trò miếu Thất Phủ bằng gỗ quý. So với các công trình kiến trúc của người Việt (Nam bộ) thì bộ giàn trò này rất mỹ thuật và kiên cố. Tất cả các bộ phận trong chịu lực trong ngôi miếu như : vì, xuyên, trính, các con kê hoặc con đội đều chạm hình voi, sư, lân, chậu hoa, chùm trái… Các bộ phận này chạm trổ tinh vi, vừa mang tính hiện thực, vừa cách điệu, lại được sơn ngũ sắc hoặc thiếp vàng. Thỉnh thoảng một vài nơi giữa những bộ phận chạm trổ tinh tế ấy cũng có những khoảng trống, là chỗ để các họa sĩ đặt lên những bức tranh nhân vật cố sử. Do đó, khu vực này cầu kỳ nhưng không nhàm chán. Có thể nói, đây là công trình mỹ thuật xuất sắc chẳng những đối với các công trình của người Việt, mà còn của người Hoa nữa.

Trong miếu có ba bàn thờ chính, bàn thờ giữa là khánh thờ Quan Thánh Đế Quân, Quan Bình Thái Tử, Châu Xương Tướng quân. Khánh thờ bên tả thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Khánh thờ bên hữu thờ Phước Đức Chánh Thần. Phước Đức Thánh Thần có hai vị Chiêu Tài Đệ Tử, Thiên Hậu Thánh Mẫu có hai thần vị Thiên Lý Nhãn (thấy ngàn dặm) và Thuận Phong Nhĩ (nghe ngàn dặm) hầu cận. Trong vách hông có tượng ngựa xích thố và Mã đầu Tướng quân của Quan Công. Ngoài ra còn có bàn thờ Phật Quan Âm, Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Di Lặc, Hộ pháp Long Thần… nhưng mang tính chất tín ngưỡng dân gian nhiều hơn tôn giáo.

Các tượng thờ kể trên đa số bằng gỗ, có một số bằng đồng, gốm sứ. Mặc dù bằng chất liệu gì thì các hiện vật này cũng đều tạo hình chân phương và sinh động, mô tả được cái nộI tâm của nhân vật ấy. Các tượng thờ này được sơn màu hoặc thếp vàng theo quy ước.

Nội cung Vĩnh An cung trang trí tuyệt đẹp. Có thể nói, không đâu có đến mấy chục bộ bao lam, câu đối, hoành phi chạm lộng tinh tế, sơn son thiếp vàng chói lọi như ở đây. Theo ký hiệu khắc trên các tác phẩm, đa số các hiện vật đều do các lò thợ ở Tân Giai, Tân Nhơn thực hiện. Các dạng hoành phi, câu đối ở miếu Thất Phủ đều có nét chữ rất đẹp. Một bức hoành khắc bốn chữ “Quan Thánh Phu Tử” được đem đi triển lãm ở hội chợ các nước thuộc địa tại Marseille (Pháp) năm 1922, được Huy chương đồng.

Hàng năm, tại miếu Thất Phủ có các ngày vía như ngày vía bà, vía Phước Đức Chánh Thần, tam Nguyên, Tứ Quý; đặt biệt nhất là ngày vía Ông (13 tháng giêng và 13 tháng năm), ngày Tất niên (15 tháng 12), có hàng ngàn người đến chiêm bái, chẳng những đã thu hút bà con người Hoa, mà còn người Việt ở địa phương nữa. Người ta đến chiêm bái Quan Thánh Đế Quân, một biểu tượng trọng nghĩa tuyệt vờI, một biểu tượng nhân dũng, tiết nghĩa, thuỷ chung… Bên cạnh đó, Thiên Hậu Thánh Mẫu và Phước Đức Chánh Thần là những vị thần phù hộ họ đi ra nước ngoài, những vị thần phù hộ họ làm ăn sinh sống. Quan Âm Bồ Tát cũng là Thiên Hậu Thánh Mẫu, với tấm lòng từ bi thường hiện ra cứu giúp người lương thiện tai qua nạn khỏi, phù hộ phụ nữ và trẻ con. Đặt biệt người Phúc Kiến thường thờ Quan Âm Bồ Tát vì truyền thuyết ngài đã xuất hiện tại Phổ Đà sơn, một ngọn núi ở hải đảo, ngoài khơi tỉnh này.

Thất Phủ miếu được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử – văn hóa (Quyết định số 152 QĐ/BT, ngày 25/1/1994).

Theo sách Di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Vĩnh Long

 

  VĂN THÁNH MIẾU VĨNH LONG
Nguyên vào năm Tự Đức thứ 14 (1862) ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ lần lượt lọt vào tay thực dân Pháp xâm lược. Lúc bấy giờ tỉnh Vĩnh Long cũng đã lọt vào tay quân viễn chinh Pháp nhưng theo hòa ước Nhâm Tuất (1862) thì Pháp phải trả tỉnh Vĩnh Long lại cho triều đình Huế. Do đó, sĩ phu ở các tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường đã rầm rộ “tỵ địa” về Vĩnh Long. Quan đốc học Vĩnh Long là Nguyễn Thông đã chọn nơi rộng rãi gần tỉnh thành Vĩnh Long để tập hợp họ lại tổ chức ôn tập chờ ngày thi cử. Mặc dù đang sống trong cảnh dầu sôi lửa bỏng nhưng giới sĩ phu thời bấy giờ đã gấp rút xây dựng một Văn Thánh Miếu bên cạnh nơi họ ôn tập. Tuy danh nghĩa là đề cao Nho giáo nhưng thực chất là xây dựng một tụ điểm hoạt động văn hóa đề cao các bậc tiền hiền và giáo dục lòng yêu nước. Công trình này khởi công từ mùa đông năm Giáp Tý (1864) và hoàn thành vào mùa thu năm Bính Dần (1866).
Sau khi hoàn thành, giới quan lại sĩ phu đã thành lập hội Văn Thánh Miếu để trông nom việc cúng tế. Hội cũng tạo được ruộng đất hương quả và xin cấp miếu phu quét dọn hàng ngày. Thế nhưng chỉ có mấy tháng sau thì quân viễn chinh Pháp lại đem chiến thuyền uy hiếp và chiếm thành Vĩnh Long lần thứ hai. Phan Thanh Giản tuẩn tiết, Nguyễn Thông “tỵ địa” ra Bình Thuận.

Sau khi chiếm Vĩnh Long, bọn thực dân Pháp lấy cớ thiếu gỗ xây dựng dinh tham biện (dinh tỉnh trưởng) định phá Văn Thánh Miếu. Lúc đó ông Bá hộ Trương Ngọc Lang ( tức Bá hộ Non - người Minh Hương) được đồng bào đề cử đứng ra tranh thủ với quân viễn chinh giữ lại công trình văn hóa này. RồI từ đó đến nay, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long được trùng tu, tôn tạo các công trình phụ vào các năm 1872, 1903, 1914, 1933, 1963, 1994 và gần đây nhất là năm là tháng 6/ 2006.

 

Văn Thánh Miếu Vĩnh Long ở tại làng Long Hồ, tổng Long An, huyện Vĩnh Bình, nay thuộc phường tư thị xã Vĩnh Long. Tuy đã trãi qua các lần trùng tu và trải qua nhiều giai đoạn lịch sử nhưng vẫn giữ được nét cổ kính.

Sát đường là cổng tam quan xây theo lốI cổ lâu có ba tầng mái. Chiếc cổng này đơn giản nhưng mỹ thuật, có nét đặc biệt so với những chiếc cổng khác. Sau cổng là thần đạo đi thẳng vào điện Đại Thành. Hai bên là hai hàng sao cao vút như hai hàng lính áp hầu. Phía trước chính diện, giữa thần đạo là ba tấm bia đá. Đáng kể nhất là tấm bia do Phan Thanh Giản viết trước khi tuẩn tiết, Trương Ngọc Lang lập năm 1872. Tấm bia thứ nhì kỷ niệm ông Tống Hữu Định và giới trí thức trùng tu tái thiết ngôi miếu năm 1903. Tấm bia thứ ba ca ngợi tấm lòng hảo tâm của bà Trương Thị Loan (con gái của Trương Ngọc Lang) hiến đất làm hoa lợi hương hỏa. Hai tấm bia sau do Nguyễn Liên Phong viết vào thập niên đầu của thế kỷ này.
Trước kia, khuôn viên có hai cái ao trồng sen có tên là hồ Nhật Tinh và hồ Nguyệt Anh. Trong văn bia do Phan Thanh Giản viết có nói đến “Thơ Lầu” (lầu sách) ở bên tả Văn Thánh Miếu (từ trong nhìn ra ). Do đó,sau khi Phan Thanh Giản tuẩn tiết, các con của Phan Thanh Giản vào bưng biền kháng chiến chống giặc; những người Minh Hương, đứng đầu là bá hộ Trương Ngọc Lang đã lập sổ quyên tiền xây dựng một “Tân Đình” (1869) phía tả Văn Thánh Miếu để thờ Phan Thanh Giản. Năm 1872 công trình này hoàn thành, Trương Ngọc Lang dựng bia đặt tên là Tụy Văn Lâu (lầu nhóm họp giới văn nhân tài tử). Tụy Văn Lâu được trùng tu năm 1914 và khoảng năm 1920 – 1923 được đổi tên là Văn Xương Các ( gác Văn Xương).
Văn Xương Các làm theo kiểu trùng thềm điệp ốc. Trên gác là nơi cất sách và thờ Văn Xương Đế Quân - vị tinh quân chủ quản việc thi cử học hành. Bài vị Văn Xương Đế Quân đặt trong khám thờ, chạm trỗ sơn thếp đẹp đẽ.
Nhưng tầng dưới Văn Xương Các mới là nơi quan trọng nhất. Gian giữa là nơi văn nhân thi ngồi đàm đạo. Phía sau là khánh thờ Gia Định Sử sỉ Sùng Đức Tiên sinh Võ Trường Toản và Khâm sai Kinh lược sứ Phan Thanh Giản.
Khánh thờ này chạm trỗ tinh vi, trong đặt hai bài vị, có câu đối ca tụng hai kẻ sĩ đứng đầu đất Gia Định.
Hoàng phong “Sử sĩ” thanh cao lão.
Tự hiệu “ thư sinh” tiết liệt thần
(Vua phong “Sử sĩ” thanh cao lão
Tự hiệu “ thư sinh” tiết liệt thần)
Đến khoảng năm 1933, Phan Thanh Giản được nhà Nguyễn phong thần. Từ đó tại khám thờ này có thêm một hòm sắc và một bức chân dung Phan Thanh Giản rất sống động, do hoạ sĩ Philippe Trần vẽ. Một số nhà hảo tâm đã hiến thêm nhiều câu đối ca tụng Phan Thanh Giản. Do đó, vị trí Võ Trường Toản đã bị lu mờ.
Bên tả khánh thờ chính là khánh thờ các quan đại thần có công khởI xướng xây dựng Văn Thánh Miếu:
- Tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn Uyển.
- Bố chánh Vĩnh Long Nguyễn Văn Nhã.
- Án sát Vĩnh Long Võ Doãn Thanh.
- Bố chánh Quảng Ngãi Nguyễn Thông (nguyên đốc học Vĩnh Long).
Gian bên hữu thờ các đại thần:
- Tuần phủ Hà Tiên Lê Quang Nguyên .
- Án sát Hà Tiên Nguyễn Toán.
- Án sát An Giang Phạm Hữu Chánh
- Tri phủ Định Viễn Lê Văn Khiêm
- Tri phủ Định Viễn Nguyễn Tống Minh
- Giáo thọ Hoằng tự Nguyễn Tu Mẫn.
- Tổng đốc Thuận Khánh Nguyễn Mục Như (Nguyễn Văn Phong)
- Bá hộ Trương Trọng Tiên (Trương Ngọc Lang)
Nguyễn Mục Như người Vĩnh Long, là cha chồng bà Trương Thị Loan. Hai ông Trương Ngọc Lang và Nguyễn Văn Phong được thờ tại Văn Thánh Miếu là do bà Trương Thị Loan gửi hậu. Riêng Trương Ngọc Lang là người có công lớn trong việc trùng tu và bảo vệ Văn Thánh Miếu.
Khu vực chính của Văn Thánh Miếu gồm Đại Thành Điện và hai ngôi miếu ở trước sân đâu mặt nhau gọi là Tả vu và Hữu vu. Khu vực này có tường hoa bao bọc, chỉ có thể ra vào bằng cửa Kim Thanh và Ngọc Chấn. Chính điện làm theo kiểu trùng thềm điệp ốc. Bên trong bài trí đơn giản, giữa khánh thờ bài vị “ Đại Thành Chí ThánhTiên sư Khổng Phu Tử” và bài vị bốn vị đứng vào hàng đệ tử của ngài gọi là “Tứ Phối”. Sau này, khi họa sĩ Philippine Trần vẽ chân dung Phan Thanh Giản có vẽ chân dung bán thân của Khổng Tử. Bức chân dung này thay thế bức tranh cũ. Cũng trong chính điện hai bên Tả ban và Hữu ban là khánh thờ “Thập nhị hiền triết”; Còn hai bên nhà Tả hữu - Hữu vu thờ “Thất thập nhị hiền”, mỗI bên ba mươi sáu vị. Đồ tự khí trong ba khu vực thờ phượng này tuy có chạm trỗ, sơn thếp nhưng mỹ thuật đơn giản. Đồ tự khí bằng gỗ, sành sứ, đồng thau.
Trong Văn Miếu có rất nhiều hoành phi, câu đối do các nhà hảo tâm ở khắp nơi hiến cúng. Trong đó có câu đối của Thượng thư Cao Xuân Dục cúng năm 1913 khi ông đến Vĩnh Long:
Xuân thu hà đẳng càn khôn, đạo tại Ngũ Kinh song nhật nguyệt.
Thù Tứ biệt thành vũ trụ, đồ qua Lục Tỉnh nhất cung tường .
Tạm dịch:
( Xuân thu trờI đất bậc nào, đạo tại năm kinh đôi nhật nguyệt.
Thù Tứ cõi bờ riêng đó, đường qua sáu tỉnh một cung tường).
MỗI năm tại Văn Thánh Miếu có các ngày lễ lớn:
Tế Khổng Tử và các vị Thánh Hiền vào ngày Xuân Đinh và Thu Đinh (ngày Đinh đầu tháng hai và ngày Đinh cuốI tháng tám).
Tại Văn Xương Các có lễ giỗ Phan Thanh Giản (mùng bốn và mùng năm tháng bảy), ngày giỗ các quan đại thần và cúng âm lịch (ngày 12 và 13 tháng mười).
Nếu so sánh lễ hội với các đình miếu khác ở Vĩnh Long thì lễ hội tại Văn Thánh Miếu thu hút khách hành hương chưa đông nhưng khách đến đây đều với tấm lòng nhiệt thành với văn hóa và yêu kính các bậc tiền nhân.

Văn Thánh Miếu Vĩnh Long được Bộ Văn hóa Thông tin côngnhận là di tích văn hóa cấp quốc gia vào ngày 25 tháng 3 năm 1991 (Quyết định số 0557 QĐ ngày 25/3/1991).

Tin xem nhiều nhất

Dự án kêu gọi đầu tư